U.S. Investment
CÔNG TY ĐẦU TƯ MỸ - USI
Công ty TNHH Đầu Tư Mỹ
Hotline: 0909 39 69 99

Tin tức

Tin tức

Cùng nhìn lại một số vấn đề di trú nổi bật năm 2016

Khoảng cách chờ đợi của hai diện F1 và F2B gần nhau

 
Trước đây, diện bảo lãnh F1 (tức diện cha/mẹ là công dân Hoa Kỳ bảo lãnh cho con độc thân trên 21 tuổi) thường có ngày đáo hạn sớm hơn diện bảo lãnh F2B (tức diện cha/mẹ là thường trú nhân Hoa Kỳ bảo lãnh cho con độc thân trên 21 tuổi). Diện bảo lãnh F1 thường nhanh hơn diện bảo lãnh F2B từ 3 đến 5 năm. Nhưng trong năm 2016, ngày đáo hạn của hai diện này đã đảo ngược lại.

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã tăng số chiếu khán (visa) cho diện bảo lãnh F2B, và sự kiện này vốn chưa hề xảy ra nay đã thành hiện thực. Những đương đơn diện F2B hiện nay sẽ được phỏng vấn trước diện F1 khoảng 6 tháng. Lịch đáo hạn tháng 01 năm 2017 của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho thấy ngày đáo hạn của diện F1 là ngày 08 tháng 01 năm 2010, nhưng ngày đáo hạn của diện F2B là ngày 08 tháng 06 năm 2010.
 
Sau khi người bảo lãnh có quốc tịch Hoa Kỳ, người bảo lãnh hoặc người được bảo lãnh có thể yêu cầu giữ lại diện bảo lãnh F2B và không tốn kém thêm chi phí. Chỉ cần viết một lá thư cho Sở di trú nơi đã chấp thuận đơn bảo lãnh. Nếu đơn bảo lãnh đang ở Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (tức National Visa Center – NVC) hoặc Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ, quý vị nên gửi bản sao thư yêu cầu đã gửi cho Sở di trú cho một trong hai nơi kể trên.
 
Sở di trú sẽ chấp thuận yêu cầu của quý vị và quý vị có thể xin giữ lại diện bảo lãnh F2B. Nếu đơn bảo lãnh của quý vị vẫn còn ở NVC, quý vị sẽ phải gửi thư chấp thuận của Sở di trú cho NVC để họ cập nhật hồ sơ.

 

Tại sao có hai bảng ngày đáo hạn?

 
Bảng Thông Báo Chiếu Khán hàng tháng từ Bộ Ngoại Giao hiện có hai bảng ngày đáo hạn. Nếu quý vị đang có hồ sơ bảo lãnh và vì lý do nào đó quý vị đang ở Hoa Kỳ hợp lệ và ngày ưu tiên (priority date) của quý vị sớm hơn ngày đáo hạn, quý vị sẽ có thể nộp đơn xin chuyển diện sớm, nhưng sẽ không thể nhận được Thẻ Xanh cho đến khi đơn bảo lãnh đáo hạn. Lợi điểm của việc này là quý vị có thể nhận được Giấy Phép Làm Việc và Giấy Du Hành Tạm Thời trong khi chờ đợi đơn bảo lãnh đáo hạn. Sở di trú sẽ không bắt đầu duyệt xét những đơn xin Thẻ Xanh này cho đến khi đơn bảo lãnh đáo hạn.
 
Hệ thống mới này không áp dụng cho những đương đơn đang chờ đợi ở ngoài Hoa Kỳ vì họ sẽ phải nộp đơn xin chiếu khán di dân hơn là được chuyển diện. Nhưng hệ thống mới này cũng không hề làm phương hại đến các đương đơn ở nước ngoài. Hồ sơ của họ sẽ không bị chậm lại vì hệ thống mới này.

Cùng nhìn lại một số vấn đề di trú nổi bật năm 2016
 

Ðơn I-601A và Ðơn I-601 nới rộng

 
Trước đây, người di cư sống bất hợp pháp tại Hoa Kỳ, và với đơn bảo lãnh xin chiếu khán di dân được chấp thuận, chỉ có thể nộp đơn I-601A xin miễn áp dụng việc trục xuất nếu họ là vợ-chồng hoặc cha-mẹ của công dân Hoa Kỳ.
 
Tương tự, những đương đơn ở Việt Nam bị Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ từ chối cấp chiếu khán (visa) và yêu cầu nộp đơn I-601  để xin miễn áp dụng việc cấm nhập cảnh vì những vi phạm luật di trú hoặc hình sự xảy ra khi đương đơn từng ở Hoa Kỳ hoặc xảy ra ở Việt Nam – nếu họ là vợ chồng hoặc cha mẹ của công dân Hoa Kỳ.
 
Nhưng luật mới về hai loại đơn kể trên đã được nới rộng và sẽ cho phép cha-mẹ và vợ-chồng của Thường Trú Nhân cũng được nộp đơn I-601AI-601.
 

Gập ghềnh việc xin thẻ xanh 10 năm

 
Trước đây, những thường trú nhân được Thẻ Xanh Có Ðiều Kiện (có giá trị 2 năm) phải nộp đơn I-751 để xin Thẻ Xanh chính thức (có giá trị 10 năm) sau khi sống 2 năm ở Hoa Kỳ, và họ chỉ đợi khoảng 4 tháng là có thể nhận được Thẻ Xanh mới nếu Sở di trú khẳng định mối quan hệ vợ chồng trong sáng với những bằng chứng thuyết phục. Nhưng trong thời gian gần đây, thời gian chờ đợi để Sở di trú duyệt xét đơn I-751 lâu hơn và khó khăn hơn. Thời gian có thể kéo dài trên 8 tháng.
 
Thêm vào đó, nhiều đương đơn đã nhận được thư của Sở di trú yêu cầu giải thích hoặc bổ túc thêm nhiều bằng chứng quan hệ vợ chồng. Cũng không ít cặp vợ chồng bị yêu cầu đi phỏng vấn lại, và một số cặp vợ chồng bị phỏng vấn nhiều lần, hoặc bị điều tra tại nhà. Quý vị rất cần tham khảo với những văn phòng đứng đắn, chuyên về di trú để giúp đỡ hồ sơ của mình.
 

Du học và du khách xin chuyển diện thẻ xanh

 
Trong năm 2016, số sinh viên du học và du khách đến Hoa Kỳ xin chuyển diện thường trú nhân qua việc kết hôn với công dân Hoa Kỳ rất nhiều. Trong số này, số người du học và du khách đến từ Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên, số đơn bị Sở di trú từ chối cũng rất đáng quan tâm và ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai của những người đang có chiếu khán (visa) du học và du lịch.
 
Nguyên nhân các đương đơn bị từ chối đơn xin chuyển diện Thẻ xanh có rất nhiều. Nguyên nhân thường gặp là những bằng chứng về quan hệ vợ chồng không đủ thuyết phục Sở di trú. Ngoài ra, một số hồ sơ gặp trở ngại vì đương đơn ghi những thông tin trong hồ sơ xin chuyển diện Thẻ Xanh khác với những thông tin khai trên đơn xin chiếu khán xin du lịch. Thí dụ: Ðương đơn khai trên đơn xin chuyển diện Thẻ Xanh là độc thân, chưa hề kết hôn trước khi kết hôn tại Hoa Kỳ, nhưng nhân viên di trú điều tra và cho biết đương đơn khai đã kết hôn ở Việt Nam trong đơn xin chiếu khán du lịch.
 

Xác định những điều kiện hợp lệ khi nhập tịch

 
Mới đây, Sở Di Trú Hoa Kỳ đã cập nhật trong mục Cẩm Nang Chính Sách về sự hợp lệ mà các thường trú nhân cần có khi nộp đơn xin nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Sự thay đổi quan trọng trong chính sách này là việc định nghĩa khi nào một người chính thức bắt đầu là thường trú nhân. Những đòi hỏi căn bản về sự hợp lệ để xin nhập tịch gồm có:
 
  • Ðương đơn phải từ 18 tuổi trở lên.
  • Ðương đơn phải chứng minh họ nhập cảnh Hoa Kỳ hợp lệ với quy chế thường trú nhân.
  • Nếu diện thường trú nhân của một người không hợp pháp vì gian dối, người này được xem là nhập cảnh bất hợp pháp, và vì thế họ không hợp lệ để trở thành công dân Hoa Kỳ. Thí dụ, nếu một người có thẻ xanh với lý lịch “độc thân”, nhưng đã âm thầm kết hôn, thì người này được xem là nhập cảnh bất hợp pháp, và sẽ không hợp lệ để xin nhập tịch Hoa Kỳ.
  • Một thí dụ khác là nếu một người có thẻ xanh qua một cuộc hôn nhân giả mạo. Nếu sự việc này được phát giác trong cuộc phỏng vấn quốc tịch thì đơn của người này sẽ bị từ chối, và Sở Di Trú cũng sẽ lấy lại thẻ xanh của họ.
  • Thời gian trở thành thường trú nhân của một người được tính từ ngày Sở Di Trú chấp thuận đơn xin điều chỉnh tình trạng cư trú (Ðơn I-485)  hoặc khi người này nhập cảnh Hoa Kỳ với chiếu khán (visa) di dân qua sự duyệt xét của Tòa Ðại Sứ (hoặc của Lãnh sự Hoa Kỳ). Bất kể việc này kéo dài bao lâu, Sở Di Trú có thẩm quyền duyệt xét Ðơn I-485, và người ta chỉ chính thức trở thành thường trú nhân kể từ ngày đơn xin được chấp thuận.
  • Một người là thường trú nhân “có điều kiện”, có thẻ xanh với thời hạn 2 năm, qua việc kết hôn, cũng sẽ hợp lệ để nộp đơn xin nhập tịch sau khi đã xin hủy bỏ tình trạng “có điều kiện” và sau 2 năm kể từ ngày họ được thẻ xanh “có điều kiện”.
 
Nếu một người đã phạm một vài tội nào đó, hoặc vẫn còn ở giai đọan “án treo” (probation) thì họ không hợp lệ để nộp đơn xin nhập tịch. Thêm vào đó, một số tội có thể làm cho một người bị trục xuất. Vì thế, nếu một người cứ nộp đơn xin nhập tịch và tội của họ bị khám phá sau khi được lấy dấu vân tay, đơn xin quốc tịch của họ sẽ bị từ chối và họ có thể phải đối diện với tiến trình trục xuất khỏi Hoa Kỳ.

Lê Minh Hải - Báo Trẻ Online

Bạn cần biết thêm chi tiết? Vui lòng ĐẶT CÂU HỎI, hoặc liên lạc trực tiếp với chúng tôi qua hotline +84 (0) 909 39 69 99 để được tư vấn.